37. Lúc mới gặp người này Liễu Thất thật ra cũng chẳng có hảo cảm hay ý định tốt đẹp gì. Thời đó như vậy là bình thường, giữa nơi không người pháp luật không cản, ngẫu nhiên gặp người thì đa phần đều là phường xảo trá, ta cướp đoạt ngươi, ngươi tính kế ta, cá lớn nuốt cá bé. Xong chuyện là mất hút, giang hồ không gặp lại nhau. Vậy nên rất ít khi xưng anh em huynh đệ.
Người nọ tóc xoăn, đeo kính mắt, trong bao tải ngoại trừ bút vở thì chỉ còn hộp dưa muối và ít bánh nướng. Cách nói chuyện nho nhã, bộ dạng lại nghèo kiết hủ lậu. Gã tự giới thiệu mình là Thần Côn, chí hướng đời này là đi khắp đại giang nam bắc, tìm tới những kỳ nhân dị sự, muốn trở thành người thông hiểu nhất về linh thế. Gã nói vừa qua Thanh Hải, muốn tìm thôn nào đó, ai dè cái chỗ đó ở tận giáp ranh Tân Cương, gã hồ hồ đồ đồ đi vòng qua dãy Altyn-Tagh (A Nhĩ Kim Sơn) thế là đến sa mạc Kumtag.
Cho rằng kẻ này đầu óc không bình thường thành ra Liễu Thất cảm thấy thương hại, tự nghĩ thôi thì bỏ qua cho tên này. Thần Côn hồn nhiên không biết chính mình vừa tránh được một kiếp nạn, còn vui sướng hài lòng đi theo hắn, nói: “Người anh em, chúng ta kết bạn nhé.”
Thế là hai người kết bạn. Một kẻ xảo trá không ưa tịch mịch như Liễu Thất có thêm người luôn miệng nói ở bên cũng không tệ.
Vì thế hai người vào sa mạc Kumtag, đi theo hướng Bắc, tiến vào Lop Nur. Cuối cùng tách ra ở bồn địa Hami.
Khi đó ở Lop Nur ngẫu nhiên vẫn gặp được vài thôn xóm của dân bản xứ – không phải loại làm màu hút khách du lịch mà là thôn xóm thật sự có người ở, phân tán ở những nơi có giếng nước nhiễm mặn hoặc ở phụ cận nguồn nước.
Người cũng không nhiều, có cái thôn thậm chí chỉ có hai nhà ở; do nuối tiếc tình bạn lâu năm nên không muốn chuyển đi. Người già thì đa số sống bằng săn thú, người trẻ tuổi chịu không nổi hoàn cảnh khắc nghiệt đều đã bỏ ra ngoài.
Liễu Thất không quen giao tiếp, bất kể ở đâu cũng chỉ chăm chăm tìm bắt rắn. Thần Côn lại khác, lúc nào cũng lăm lăm sách bút trên tay, vẻ mặt hớn hở tìm lớp người già hỏi thăm chuyện ma quỷ xa xưa truyền lại.
Gã không quá rành tiếng địa phương, người cao tuổi phát âm lại càng khó nghe, Liễu Thất quả thật không hiểu nổi Thần Côn làm cách nào mà mỗi lần đều ghi lại được chi chít trên vở.
Hỏi hắn thích cái gì, Thần Côn chỉ đáp: Chuyện ma quỷ xa xưa.
Đời người, có tiền thì ở nhà lầu ăn rượu thịt chơi đùa nữ sắc, không tiền thì nằm ngủ trên cát nghe kể chuyện xưa. Đêm dài dằng dặc, coi như là tiêu khiển.
Vậy nên mỗi đêm trước khi đi ngủ Liễu Thất đều bảo Thần Côn kể một đoạn. Mà Thần Côn mồm miệng cũng giỏi, vừa mở miệng nói “Chỉ bảo thêm nhé”, lại vừa vui mừng thao thao bất tuyệt.
Tối hôm đó, Liễu Thất nhớ rất rõ đêm ấy hắn đang dùng băng dính quấn lại chiếc gậy bắt rắn bị gãy thì Thần Côn hề hề đi lại, nói Liễu Liễu Nhi, tôi kể chuyện xưa cho anh nghe nhé.
Trần đời có một số người rất giỏi được đằng chân lân đằng đầu, ví như Thần Côn, lúc đầu hắn còn khách khí gọi Liễu Thất là “Người anh em”, bây giờ đã trở mặt gọi “Liễu Liễu Nhi” – nghe có khác gì gọi mấy em gái tiếp rượu đâu. Liễu Thất suýt phát cáu nhưng nghĩ lại thôi, so đo cùng kẻ đầu óc không bình thường làm gì, cứ nghe gã kể chuyện cho xong.
…
Thần Côn nói: “Anh có biết Hán Vũ Đế không?”
Liễu Thất trả lời: “Sao lại không, tôi đây là người Trương Dịch đấy.”
Cái tên Trương Dịch là do năm đó Hán Vũ Đế tiến bắc đánh Hung Nô, đả thông Tây Vực, lập Hà Tây bốn huyện, cảm thấy mình công lao không nhỏ nên đem đổi tên quận thành Trương Dịch.
Thần Côn rất cao hứng: “Biết thì tốt, vậy tôi khỏi phải giới thiệu.”
“Truyện kể Hán Vũ Đế sau khi đả thông con đường với Tây Vực, thương đội tới lui náo nhiệt. Các thương đội lạc đà liên miên không dứt, mỗi ngày cổng lớn mở ra là vô số đoàn lạc đà lũ lượt kéo vào. Quốc gia cường thịnh, thương nghiệp phát triển.”
Liễu Thất nói: “Đúng vậy, đến triều Đường càng thịnh vượng.”
Thần Côn hạ giọng: “Thế nhưng lại có một lời đồn cứ thế lan truyền, có người nói trong những đoàn thương đội lạc đà này có trà trộn một đội lạc đà ma.”
Liễu Thất nhìn quanh, chỉ thấy sa mạc tối om, giữa đêm hôm nói chuyện ma quỷ có chút rờn rợn.
“Người ta nói, đội lạc đà ma này đi thành một hàng chín người, chỉ theo Ngọc Môn quan ra vào. Các thương đội khác trên đường sợ nhất gặp thổ phỉ, sẽ luôn cùng khách thương khác kết đội cùng đi. Riêng đội lạc đà ma thì không, luôn độc lai độc vãng, vậy mà vung tay đều là hoàng kim ngọc thạch. Sau khi nhập quan cũng không ăn chơi đàng điếm, trừ lúc mua hàng đều chỉ ở lỳ trong phòng. Sau khi xong chuyện, lại yên lặng xuất quan.”
Liễu Thất không tin, nói: “Chỉ vậy mà cũng bị gọi là đội lạc đà ma? Nhỡ người ta toàn người hướng nội thì sao?”
“Chuyện về đội lạc đà ma đã lưu truyền mấy trăm năm, tam sao thất bản rơi rụng không ít, nhưng chủ yếu lưu truyền rộng rãi vào hai thời Hán – Đường. Cũng bởi thời này việc bán buôn mậu dịch mạn Hà Tây phát triển. Sau này nhà Minh bế quan tỏa cảng, trọng tâm kinh tế chuyển về hướng Đông Nam, thành ra chuyện bên này cũng ít người chú ý.”
Thần Côn nuối tiếc: “Khi đó thủ đô là Trường An, hành lang biên giới như Hà Tây không được chú trọng. Lại nói, đội lạc đà này ăn nói bất nhất, mỗi lần nói một kiểu. Lúc thì bảo đến từ Đại Uyển, lúc thì từ Ô Tôn, rồi từ Ba Tư… đủ cả. Nhưng thời đó tin tức không thông suốt, dù có bịa là đến từ NewYork thì cũng chẳng ai biết đấy là đâu. Tất nhiên điểm này chưa tính là kỳ quái, cũng có thể do người ta không muốn tiết lộ tin tức.”
“Kỳ quái là ở chỗ các thương đội tự lan truyền với nhau rằng đội lạc đà ma này chỉ hoạt động ở phạm vi Ngọc Môn quan và đồi Bạch Long chứ chưa từng thấy họ xuất hiện xa hơn ở phía tây. Vì thế mới có lời đồn rằng nơi này có quỷ môn quan, đội lạc đà này chính là từ quỷ môn đi ra ngoài.”
Hiểu rồi. Khi đó Ngọc Môn quan là cửa ải phía bắc trên tuyến đường tơ lụa, đồi Bạch Long chẳng qua là một đoạn đường hung hiểm không thích hợp nghỉ chân. Đà đội này cứ tiến vào đây lại biến mất, vậy thì đúng là khiến người ta hoang mang.
Liễu Thất hồ nghi hỏi: “Là ma thật à?”
Thần Côn thần bí đáp: “Còn phức tạp hơn ma quỷ, nghe nói có người hiểu biết cố ý quan sát thì thấy đà đội này người nào cũng có bóng. Có lần thời tiết không tốt, giữa ban ngày xảy ra bão cát. Bình thường gặp tình huống này thì đám lạc đà sẽ rúc đầu xuống cát, người trốn phía sau. Có thương đội người Hồ, tưởng là đi được nên cứ tiến lên, giữa đường gặp được đoàn lạc đà chín người này, thế mà phát hiện chỉ có lạc đà đang nằm sấp chứ không hề có người.”
Liễu Thất chặc lưỡi: “Thế là đám thương nhân người Hồ lấy hết lạc đà luôn chứ?”
Thần Côn gật đầu: “Đám thương nhân Hồ đó quả thật nảy ra ý xấu, dắt lạc đà đi. Thế nhưng lại vô tình phát hiện bên dưới lạc đà có chéo áo lộ ra. Thương nhân người Hồ tưởng có người trốn dưới bụng lạc đà mới thò tay vào sờ… Biết nói thế nào nhỉ, trong lớp quần áo bùng nhùng không phải người mà là con rối bằng da trâu. Nếu chỉ là con rối thì cũng không sao, nhưng lại nghe kể con rối da kia bị gió thổi, tròng mắt trong hốc mắt lại bỗng nhiên quay tròn, ánh mắt quỷ dị đảo qua, hoàn toàn không giống ánh mắt con người.”
“Thương đội người Hồ sợ vỡ mật, bỏ chạy tứ phía. Giữa lúc bão cát lớn, có người bị gió cát thổi quay cuồng, chạy vòng tại chỗ. Hắn ta nhìn thấy những con lạc đà kia đã đứng dậy, trên lưng đều có người cưỡi, mà trang phục những người này giống y hệt trang phục trên người những con rối da kia.”
“Người này cũng chẳng hiểu ăn được gan hùm mật gấu gì mà còn tiếp tục đi theo. Bão cát càng lúc càng lớn, gió cát thổi mạnh đến mức không mở được mắt, hắn cắn răng đi theo, ai ngờ bị cảnh tượng sau đó dọa sợ vãi linh hồn.”
“Bởi đà đội chín người kia giữa ban ngày ban mặt cứ thế biến mất trước mắt hắn.”
Câu nói cuối cùng này dọa Liễu Thất nổi da gà.
Hắn hỏi Thần Côn: “Sau đó thì sao? Có ai giải thích gì không?”
“Có người nói nơi đó ẩn giấu một quan khẩu người thường không thấy được, bên trong chứa đầy hoàng kim ngọc thạch, có lẽ là một cổ thành không sản xuất được nhu yếu phẩm. Dù sao thì đà đội này đi ra là để mua hàng hóa, đúng không? Cũng có người nói cổ thành này là do Hán Vũ Đế dựng lên, chẳng phải ông ta từng gặp qua Tây Vương Mẫu sao? Do có lời tiên đoán đại Hán diệt vong cho nên đã âm thầm đem lượng lớn vàng bạc tài nguyên đáng giá ra ngoài, nhằm lưu lại cho con cháu sau này tìm cách tái khởi…”
Thần Côn nheo nheo mắt: “Sao hả, nghe cũng hay đúng không? Những truyền thuyết dân gian của Trung Hoa cổ đại chính là một kho tàng văn học khổng lồ. Sau này tôi mà viết sách nhất định sẽ viết nguyên một cuốn về đề tài này.”
Liễu Thất không hé răng.
Hắn cũng cảm thấy đây quả thực là một kho tàng. Có điều từ “kho tàng” này không cùng nghĩa với “kho tàng văn học” mà Thần Côn nói.
…
Xương Đông nghe xong từ chối cho ý kiến: “Những truyền thuyết dân gian từ xa xưa như vậy nghe cho vui là được rồi, chẳng lẽ Thất gia còn tin là thật?”
Trà dần nguội, Liễu Thất vẫy tay ra dấu với thủ hạ, ý bảo đổi một chén khác.
“Ban đầu tôi cũng không tin. Bao năm như vậy, đã sớm quên rồi. Mãi đến lúc Hôi Bát gặp chuyện tôi mới nghĩ đến. Thằng Sún nói với tôi cái quan tài kia sau khi mở ra cậu có đếm qua số rối da bên trong, số lượng cũng là chín, đúng không?”
Chuyện này thì không còn cách nào chối được, Xương Đông đành chịu.
Liễu Thất nói: “Cậu xem, đều có tiền căn hậu quả cả, tôi đã dính líu tới chuyện này hơn mười năm chứ có ít gì. Nếu chỉ coi nó như chuyện ma quỷ truyền miệng, vậy thì tôi cũng khờ quá rồi.”
Xương Đông nói: “Nói vậy là ông tốn công gọi điện thoại cho chúng tôi đến đây xem ra không phải chỉ để kể chuyện xưa. Vậy thế này nhé Thất gia, ông muốn thế nào cứ trực tiếp nói rõ, tôi sẽ cân nhắc thật kỹ. Nếu có thể hợp tác thì hợp tác. Nếu không thể thì theo quy củ tìm người hòa giải, không thì liều mạng một phen. Ông nghĩ sao?”
Đường mập ở bên cạnh nghe chữ hiểu chữ không, nhưng hắn cũng biết đây là thời khắc mấu chốt, trái tim trong ngực đập bình bịch. Nhìn sang Diệp Lưu Tây thấy cô đang chăm chú nghe, hoàn toàn không có ý sẽ giúp hắn băng bó. Xem ra không trông đợi được, Đường mập tự mở hòm thước, lấy thuốc sát trùng ra dùng.
Liễu Thất cười ha ha, giọng gã vốn khó nghe, giờ cười lên nghe như tiếng lừa hí, Diệp Lưu Tây không nhịn được nhíu mày.
“Xác Hôi Bát chắc chắn phải nhặt, dân giang hồ phải có đạo nghĩa. Mà có hàng ngon thì tôi cũng phải có một phần.”
Xương Đông bất động thanh sắc: “Tôi cũng không cản Thất gia, ông cứ thẳng đại lộ Hala mà đi, vết xe đi vào đồi Bạch Long của tôi chắc chắn vẫn còn, nếu ông vẫn chưa rõ lộ tuyến thì tôi có thể vẽ cho ông một bức.”
Liễu Thất khoát tay: “Tôi sống bằng này tuổi, tuy còn minh mẫn nhưng thân thể không chịu được bôn ba đường xá, chưa kể…”
Gã như vô tình hữu ý nói: “Chưa kể tôi thấy không phải kẻ vớ vẩn nào cũng tìm được quan tài rối da đâu.”
Xương Đông nói thẳng: “Nếu vậy thì phải khiến Thất gia thất vọng rồi. Nói thật ra thì chúng tôi cũng chỉ ngẫu nhiên gặp được. Thứ đó và thi thể Hôi Bát cùng nhau biến mất, chúng tôi cũng thấy hết sức kỳ quái.”
Liễu Thất hắng giọng, đưa tay vào trong áo bông lấy ra một cuốn sổ.
Ánh mắt Xương Đông chợt căng thẳng, thoáng trầm xuống.
Đây chính là cuốn sổ trong phòng anh.
Nén suy nghĩ trong lòng, anh bình tĩnh nói: “Thất gia, chuyện này không được phù hợp.”
Liễu Thất ra vẻ xin lỗi: “Xin lỗi cậu, bệnh nghề nghiệp, tôi có thói quen xem xét nơi người khác trú lại. Cũng coi như cho hai người một bài học, làm việc phải cẩn thận, đừng tạo sơ hở cho người khác lợi dụng.”
Diệp Lưu Tây cũng lạnh lùng hỏi: “Chắc là cũng lục cả phòng tôi rồi hả?’
Liễu Thất lại cho tay vào áo: “Diệp tiểu thư cũng không đơn giản đâu.”
Thứ gã lấy ra lần này chính là chiếc cốc thú mã não.
Đường mập giật mình, trong đầu run lên; thấy ánh mắt Diệp Lưu Tây biến lạnh, hắn hốt hoảng nuốt nước bọt, cứ sợ cô sẽ bộc phát xông ra túm lấy cổ Liễu Thất.
Liễu Thất đặt cốc thú mã não lên bàn: “Đã làm giả đồ cổ thì đừng có làm giả thứ đồ nổi tiếng quá. Còn cuốn sổ kia tôi xem qua chỗ hiểu chỗ không, nhưng cũng nhìn ra được hai người có chút bản lãnh. Hợp tác cùng người bản lãnh thì cần thành ý; vậy nên tôi có biện pháp, hai người nghe xem có được không.”
“Tôi sẽ chi tiền, các người thì xuất lực. Tôi cũng không đòi hỏi nhiều, thứ nhất muốn nhặt xác Hôi Bát, thứ hai, tìm được đồ tốt gì thì tôi lấy một phần.”
Xương Đông coi như hiểu rõ.
Liễu Thất lão già này rõ là không muốn chịu mạo hiểm nhưng thấy mùi tài lộc thì không đứng yên được, nên tính đem ít tiền đầu tư, kiếm chút lời lãi.
Anh còn chưa kịp trả lời, lại chợt nghe Diệp Lưu Tây đáp ngắn gọn: “Được.”
Cô bước tới, cầm lấy cốc thú mã não trên bàn, ghé miệng thổi vài hơi, rồi lại dùng vạt áo lau vài lần, sau đó nhìn Liễu Thất mỉm cười: “Tôi thích nhất là dùng tiền người khác làm chuyện của mình.”